Trang Chủ | Truyện Sex | Chat
wap truyện hay
13:22 05/05/24
("._.) S2 (._.*)
Hi, khách | Đăng nhập | Đăng ký
ứ làm thật đâu. Anh chỉ được sờ thôi đấy nhé...

Truyện Mối tình đầu của tôi

DocTruyen.Wap.Sh Wap Đọc Truyện Trên Mobile Cực Hay
Đang xem: 1Lượt xem: 1959
Tác giả: HoanXinh
Thể loại: Truyện tình yêu
Số trang: 2
. Cả cán bộ tiểu đội, trung đội cũng biết nhưng không hiểu sao không ai chỉ trích hay cấm đoán (như theo qui định thời chiến), mà ngược lại, mọi người đều quan tâm, ủng hộ, động viên hai người. Có lẽ tình yêu thơ ngây, trong sáng của họ đã cảm hóa được mọi người, vượt qua được mọi rào cản, mọi qui chế. Tình yêu của họ có điều gì đó giống như là thứ ánh sáng kỳ diệu, như là một điều tốt đẹp, thơ mộng, một thứ biểu tượng của sự sống trong khung cảnh bom đạn chết chóc đang diễn ra từng phút từng giây. Cả tôi cũng vậy. Trong tôi không hề có cảm xúc ghen tuông với Thành, thứ cảm xúc mà trước đó mười năm đã chắc chắn có. Tôi trân trọng, nâng niu tình cảm của Thành và Hiền giành cho nhau. Có lẽ bởi tâm hồn tôi trong sáng một phần, phần nữa, ở cái nơi mà sự sống, cái chết chỉ là gang tấc và sự hy sinh lớn lao vĩ đại của mỗi một con người cho sự nghiệp cách mạng chung đang diễn ra mỗi phút giây, thì không thể nào có chỗ cho cái nhỏ nhen tồn tại...

Mấy hôm liền chiều nào cũng rảnh. Bọn Mỹ bận đánh phá tận đẩu đâu mà bỏ quên cung đường của chúng tôi. Mấy bữa nay, cứ chiều đến là thằng Thành trốn tôi đi biệt, không biết đi đâu. Tôi buồn tay, loay hoay trong lán một lúc rồi cầm cần câu ra suối. Tôi đặt tên cho con suối là "suối Đá hát". Con suốt chảy qua ngầm Đá Bạc không lớn nhưng nước trong vắt, có thể nhìn thấy từng đàn cá bơi tung tăng. Hai bên bờ suối là bạt ngàn cây du, loại cây có lán lá rộng, màu đỏ tím rực rỡ. Đôi khi rảnh rỗi, tôi ra suối, nằm ngửa mình trên một tảng đá to, ngắm nhìn bầu trời trong vắt qua tán lá, lắng nghe tiếng suối chảy róc rách nghe như tiếng hát ai xa đưa, tận hưởng cái không khí mát lành, thơm tho của rừng, của suối giữa buổi trưa hè oi nồng chan chát nắng, cảm thấy cuộc đời cũng đầy thi vị!

Tôi cầm cần câu, nhảy trên những tảng đá trắng, to như trâu đằm giữa suối, đi ngược về phía trên tìm chỗ câu cá. Bỗng tôi nhìn thấy thằng Thành. Nó đang cúi người lúi húi, chăm chú mài dũa vật gì. Thỉnh thoảng Thành ngước lên, đưa vật đó lên trời soi, ngắm.

- Hầy! Làm gì đây? - Tôi đập mạnh vai Thành.

- Ơ!... - Thành giật mình, nhìn tôi, toét miệng cười.

Thành giơ cho tôi xem chiếc nhẫn mà hắn đang làm dở. Đó là một chiếc nhẫn làm từ một mảnh máy bay Thành nhặt được đâu đó. Chiếc nhẫn thật đẹp, bóng loáng. Trên mặt nhẫn có khắc hình một đôi chim câu đang tung cánh bay về cùng một hướng; giữa có khắc hai chữ "T.H" viết hoa, lồng vào nhau. Nét khắc rất điệu đà, tinh xảo. Nhất là đôi bồ câu, tuy nhỏ nhưng thật có hồn, thật sống động. Tôi thầm thán phục tài năng của Thành. Quả thực, hắn có đôi bàn tay vàng.

- Thế nào? Đẹp không? - Thành hỏi.

- Tuyệt vời. Chắc Hiền thích lắm!

- Tối nay tao sẽ mang tặng cô ấy. Mày đi câu đi, để tao làm nốt.

Tối đó Thành về muộn. Mọi người đã ngủ, hắn lén đi nhẹ trên sạp đến chỗ tôi. Để nguyên cả quần áo ướt đẫm sương, Thành ôm chặt lấy tôi, không giấu giếm vẻ hạnh phúc.

- Thế nào? - Tôi hỏi.

- Tuyệt vời. Nàng thích lắm. Nhưng... buồn cười quá

- Làm sao?

- Bọn tao nói chuyện rất lâu, đủ thứ hầm bà lằng. Đến đoạn "cao trào", trước khi tặng nhẫn cho nàng để nói "Anh yêu em", tao phải lựa thế, xoay chiều, lén đứng lên một hòn đá, rồi hôn...

Chúng tôi rinh rích cười. Cả tôi với Thành đều lùn, chỉ khoảng mét sáu, so với Hiền còn thấp hơn nửa cái đầu.

- Sao từ trước tới giờ mày không "trình bày" lại chọn thời điểm này mà tỏ tình? - Tôi hỏi.

- Hôm nay là sinh nhật tao. Vẫn biết là tao không cần nói gì thì Hiền cũng cảm nhận được tình yêu mà tao dành cho cô ấy. Cũng như tao cũng cảm nhận được tình yêu Hiền dành cho tao. Thế nhưng... - Giọng Thành trầm xuống - Chiến tranh ác liệt quá. Sống chết chẳng biết thế nào mà lường. Tao lo. Tao linh cảm... Không! Tao sợ điều gì đó... - Thành nói lấp lửng, giọng trống vắng, xa xăm.

- Sợ đếch gì. Sống chết có số. - Tôi nói to, cố ý át lời Thành.

***

Đó là một ngày khủng khiếp nhất trong cuộc đời tôi. Từ sáng sớm tôi đã có mặt ở chòi canh, trên một ngọn đồi cao. Hôm ấy tôi được phân công trực báo động. Có nghĩa là tôi phải ngồi trên chòi, quan sát bầu trời thật kỹ, nếu có máy bay xuất hiện thì khua kẻng báo động. Tùy theo mức độ nguy hiểm mà ra hiệu lệnh để đồng đội biết mà sẵn sàng đối phó với giặc.

Đó là một ngày hè cháy bỏng như bao ngày hè miền Trung khác. Trời xanh cao, trong vắt. Nắng chói chang, rực rỡ. Tôi ngồi trong chòi gác, cái chòi làm bằng tre, lợp lá cọ, căng mắt dõi nhìn về phía biển Đông xanh ngắt, nơi mà lũ máy bay giặc thường bất ngờ xuất hiện. Im ắng quá. Suốt từ sáng đến gần trưa hoàn toàn không có mảy may tiếng động nào. Hoàn toàn không có tiếng ầm ì từ xa vọng lại. Bầu trời cao vòi vọi, xanh ngằn ngặt. Cả một ngọn gió cũng hiếm hoi. Im ắng đến ngờ! Từ ngày chiến tranh bùng nổ, bầu trời quê hương tôi ít khi được yên tĩnh. Tiếng máy bay gầm rú, tiếng bom đạn nổ uỳnh oàng... Cả ngày lẫn đêm, không lúc nào ngớt. Bởi thế, sự im lặng kéo dài hiếm hoi làm tôi cảm thấy áy náy, bồn chồn. Tôi càng chăm chú quan sát hơn.

chiến tranh

Đêm qua tôi với thằng Thành nói chuyện rất khuya, tuy thế, giờ tôi vẫn không hề cảm thấy buồn ngủ tí nào. Tôi sợ. Tôi lo lắng điều gì đó bất trắc xảy ra. Và rồi, điều tôi nghi ngại đã đến. Tầm trưa, ba chấm đen bỗng xuất hiện trên bầu trời phía Đông Nam. Nó bay rất nhanh, đội hình tam giác. Ngay lập tức tôi phát hiện đó là ba chiếc F105, loại máy bay chiến đấu có tốc độ siêu âm. Tôi gõ kẻng báo động nhịp ba liền hồi. Ba chiếc máy bay nâng độ cao rồi đột ngột bổ nhào. 'Tặc... Tặc... Tặc" tôi nghe tiếng 12 li 7 của tiểu đội tôi bắn trả. Cả tiếng "Cà tùm... cà tùm" của pháo 37 li, bộ đội chủ lực cũng đồng hiệp lực. Ba chiếc máy bay F105 thi nhau bổ nhào. Tiếng bom nổ bình bịch âm i. Bom rơi rất gần, bởi tiếng nổ của nó nghe không chát chúa mà cứ bình bịch, i i. Kinh nghiệm cho tôi biết điều đó. Trung đội tôi đang bị oanh tạc. Dưới kia con đường đỏ như máu, oằn lên trong khói bụi mịt mù. Tiếng 12 li 7 im bặt.

Tôi lao xuống như điên. Lũ giặc đã bỏ đi, để lại cả một vùng trời đen đặc khói bụi. Mắt tôi cay xè, gần như mù, không thể nhìn rõ bất cứ thứ gì. Tôi lao về phía ụ pháo 12 li 7 theo trí nhớ của mình, thỉnh thoảng lại vấp vào những cục đá lổn nhổn trên mặt đất, ngã dúi dụi, đau điếng. Tiếng khóc than, gào thét của chị em làm bước chân tôi khựng lại, mềm nhũn. "Thành ơi! Long ơi! Đồng ơi! Vượng ơi!... Trời ơi... đâu cả rồi?!" Ụ pháo 12 li 7 của tiểu đội tôi bị san phẳng, chỉ còn lại khẩu pháo vẫn vươn nòng. Đằng đuôi, phía báng súng, một người vẫn đứng, hai chân bị lấp, còn lại một nửa thân người không đầu, hai tay vẫn cầm chặt cò súng. Xung quanh ụ pháo, chị em lăn lộn gào khóc, vừa thay nhau đào bới. Chỉ còn lại mình tôi là đàn ông duy nhất. tôi tự biết mình phải cứng rắn lên, không được khóc.

Phải rất lâu sau, chúng tôi mới tìm được hết thân xác đồng đội. Tiểu đội tôi có chín người, trừ tôi, còn lại đều hi sinh. Một quả bom đã rơi rất gần ụ pháo, tàn sát tất cả. Cái xác không đầu kia chính là thằng Thành. Nó được khẩu súng che chắn nên thân hình còn nguyên, nhưng cái đầu bị bay mất. Tôi loay hoay mãi không bế được Thành đặt xuống đất. Hai bàn tay nó bám quá chặt vào cò súng, không thể nào gỡ ra được. Một vài đồng đội đến giúp tôi, nhưng vẫn không xong. Chúng tôi không nỡ mạnh tay. Cuối cùng, tôi đành gọi Hiền. Hiền hầu như đã ngất xỉu. Tôi phải vừa động viên, vừa dìu Hiền đến bên Thành. Hiền dựa vào tôi, vừa khóc thảm thiết vừa nhẹ nhàng gỡ từng ngón tay Thành ra khỏi cò súng. Thật lạ. Thành như nghe được tiếng Hiền, như cảm nhận được hơi ấm từ bàn tay Hiền, những ngón tay của hắn mềm dần, rồi buông lỏng cò súng.

Tôi đặt Thành bên cạnh những đồng đội khác. Tám người, xếp hàng một, thi thể hầu như đầy đủ cả, chỉ duy nhất xác Thành thiếu cái đầu.

Cho mãi đến mịt tối vẫn không tìm thấy cái đầu của Thành, cuối cùng chúng tôi đành phải liệm xác. Sáng hôm sau, cả Trung đội bổ đi khắp nơi, lục soát mọi xó xỉnh, từng centimet một, rất kỹ, vẫn không tìm thấy cái đầu của Thành. Cuối cùng chúng tôi quyết định hạ huyệt. Một cái huyệt tập thể được đào ở lưng chừng ngọn đồi bạt ngàn hoa sim, bạt ngàn nắng và gió. Khi những cục đất đầu tiên thả xuống, Hiền bỗng lao xuống huyệt, ôm chặt lấy Thành. Phải vất vả lắm tôi mới cõng được Hiền lên, an ủi, động viên mãi Hiền mới chịu để yên cho chúng tôi lấp huyệt.

Những ngày tiếp theo trôi qua thật nặng nề, khủng khiếp. Chúng tôi vẫn ra mặt đường nhưng hầu như không ai nói với ai một lời. Bọn giặc giống như lũ chó, cắn trộm một miếng rồi dong thẳng, không quay lại, bởi thế không khí càng ắng lặng, nặng nề. Ái ngại nhất là thái độ của Hiền. Từ khi chôn thằng Thành và đồng đội, Hiền không hề khóc, không hề nói một tiếng nào. Cô đi lang thang như người mất hồn, ánh mắt hoang dại, tóc tai không chải, để xõa bù xù. Trung đội để Hiền ở nhà với tổ bếp, không cho ra mặt đường. Tuy thế Hiền hoàn toàn được tự do, không ai bắt cô phải làm bất cứ việc gì. Mọi người ai cũng thương Hiền, ai cũng nhìn Hiền với ánh mắt cảm thông, ái ngại.

Ngày thứ ba, buổi chiều, chúng tôi không ra mặt đường mà ở nhà chuẩn bị cúng tế, lễ mở cửa mả. Tôi ngồi trong nhà bếp, đang loay hoay tìm cách cắt cổ con gà trống đầu đàn, bỗng có tiếng thét rợn người. Tôi cảm thấy sống lưng mình lạnh toát, mồ hôi vã như tắm. Tôi nhận ra đó chính là tiếng Hiền. Buông vội con gà, tôi lao về phía nhà kho, nơi vừa phát ra tiếng thét. Cửa nhà kho mở rộng, trong thứ ánh sáng mờ nhạt của buổi chiều tà, tôi nhìn thấy Hiền nằm sóng soãi trên nền đất. Tôi loay hoay, chật vật, xốc ngửa Hiền lên để bế cô ra ngoài. Hiền ngất xỉu. Linh tính mách bảo cho tôi một điều gì đó. Tôi đảo mắt nhìn quanh. Bỗng tôi nhìn thấy cái đầu thằng Thành. Cái đầu ngồi chóc ngóc trên đống củi. Hai mắt vẫn mở trừng trừng.

... Lễ mở cửa mả trở thành lễ hoàn táng. Buổi chiều hôm đó chúng tôi đào huyệt tập thể lên, táng lại. Cái đầu thằng Thành đã trở về với thân xác của nó. Mệt nhọc và rùng rợn nhưng chúng tôi ai nấy an lòng. Giờ thì các đồng đội tôi đã có thể yên nghỉ vĩnh hằng. Ngôi mộ được đắp rất lớn và chúng tôi đã trồng lên rất nhiều bụi hoa sim. Loài hoa có màu tím ngát đến se lòng.

Sau bữa đó, Hiền lên cơn điên thực sự. Không tỉnh lại lần nào, suốt ngày Hiền chỉ múa hát, cười nói huyên thuyên. Tôi đau đớn nhìn Hiền. Đôi mắt đen láy, tình tứ của em ngày nào nay trở nên hoang dại, vô hồn. Mái tóc dài, đen mượt điệu đà bởi chiếc băng-đô được cài rất khéo, giờ xổ tung ra, bù xù, cáu bẩn, cài rất ẩu những bông hoa dại đủ màu.

Một tuần sau, bệnh tình của Hiền ngày thêm trầm trọng, chúng tôi quyết định đưa cô vào bệnh viện. Kể từ khi Hiền rời đơn vị, tôi như kẻ vô hồn. Tiểu đội tôi đã được bổ sung quân số. Lại đủ chín người như cũ, nhưng giờ sao tôi thấy mình lạc lỏng, bơ vơ. Tôi vẫn chiến đấu, vẫn ra mặt đường, vẫn hăng say công tác, nhưng có lẽ đó chỉ là con người máy trong tôi hoạt động, chứ không phải con người thực của tôi. Tôi không còn là tôi nữa. Cảm giác thật trống rỗng, chơi vơi... Rất may là tôi đã sớm thoát ra tình cảnh đó. Một biến cố lớn bất ngờ xảy ra: ngừng bắn! Sau thất bại chiến dịch "Điện Biên Phủ trên không" người Mỹ buộc phải tuyên bố từ bỏ chiến tranh phá hoại miền Bắc. Thật đau lòng và tiếc thương cho Thành và Hiền. Hòa bình lập lại chỉ sau cái chết của Thành một thời gian rất ngắn.

***

Chiến tranh kết thúc, tôi may mắn được đơn vị cho đi học văn hóa, rồi sang Liên Xô cũ học đại học. Cuộc đời tôi bước sang trang mới. Trước khi ra Hà Nội nhiều lần tôi đến thăm Hiền ở bệnh viện. Bệnh tình của Hiền có tiến triển, sức khỏe có khá hơn, tinh thần cũng tỉnh táo hơn. Tôi nói với Hiền, rằng tôi phải chia tay em để đi học xa, lâu ngày, Hiền cố gắng giữ gìn sức khỏe, chăm uống thuốc để mau lành bệnh... Hiền nhìn tôi không nói gì, nhưng ánh mắt biểu hiện sự xúc động. Cái nhìn "có hồn" đó đã tạo cho tôi một niềm hi vọng dù rất mong manh về khả năng lành bệnh của Hiền.

Những năm học ở nước ngoài, tôi vẫn dõi theo Hiền. Mẹ tôi cho biết, Hiền đã đỡ nhiều, đã xuất viện. Một lần khác, mẹ tôi bảo Hiền đang học Cao đẳng sư phạm ở tỉnh nhưng rất khó khăn vì thỉnh thoảng vẫn phải nhập viện, bởi bệnh cũ tái phát. Đến sau ngày giải phóng 1975, Hiền về quê cùng với gia đình đâu tận miền Nam. Từ đó tôi không hay biết gì về Hiền nữa.

Năm 1979, tôi tốt nghiệp ra trường, trở về Việt Nam, với tấm bằng kỹ sư Địa chất hạng ưu. Thời gian đó, miền Nam vừa mới được giải phóng, đang rất cần những cán bộ như tôi. Bởi vậy, tôi xung phong đi Nam, nhận công tác tại Liên đoàn Địa chất số 8, thành phố Hồ Chí Minh. Tiếng là thành phố nhưng công việc địa chất thì chủ yếu là ở núi rừng. Một năm có hai mùa thì suốt cả sáu tháng mùa khô chúng tôi phải lăn lộn theo những tuyến lộ trình khảo sát thực địa khắp mọi nơi, từ miệt rừng sâu suối thẳm cho đến tận vùng hải đảo xa xôi. Tôi được cử làm đội phó đội thực địa miền Đông. Địa bàn của chúng tôi chủ yếu là miền núi rừng Đông Nam Bộ, bao gồm các tỉnh Đồng Nai, Thuận Hải, Lâm Đồng.

Trong một chuyến công tác tôi ghé thăm Hiền và gia đình cô đang sinh sống ở Thuận Hải, địa chỉ mà tôi lần mò kiếm được ở quê, trước khi vào Nam nhận công tác. Tiếp tôi là anh Hải, anh ruột Hiền. Chúng tôi đã quen nhau từ trước. Tôi đã gặp anh vài lần khi đến thăm Hiền ở bệnh viện. Hải kể tôi nghe, sau năm 1975, gia đình anh trở về đây, là nơi quê cha đất tổ, sinh cơ lập nghiệp. Thời gian đầu bệnh tình của Hiền có khá hơn, cô tiếp tục theo học Cao đẳng sư phạm. Vài năm sau, ba mẹ mất, bệnh của Hiền lại tái phát. Hải đưa Hiền đi khắp nơi điều trị. Hết bệnh viện này, bệnh viện nọ, đến thầy lang này thầy lang kia, bệnh vẫn không dứt. Hải phải bán dần nhà cửa, ruộng vườn để trị bệnh cho em. Về sau, có người mách ở miền Bảo lộc, Lâm Đồng có ông thầy thuốc người dân tộc Ka-ho chữa bệnh rất hay, Hải cơm đùm cơm nắm đưa em lên đó nhờ cậy. Đó là một vùng núi rừng sâu thẳm, chỉ có người dân tộc sinh sống. Họ tốt bụng và hiền lành, không khí lại tĩnh lặng, yên bình, nên Hải yên tâm để Hiền ở lại. Mỗi năm vài lần Hải bỏ công chuyện làm ăn ở nhà, lên Bảo Lộc thăm em.

Thời gian đầu bệnh của Hiền chuyển biến rất tốt. Sức khỏe của cô khá hơn, tỉnh táo hơn. Thậm chí, Hiền còn có thể mở lớp dạy chữ cho con em trong bản. Nhưng năm sau nữa, Hải lên thăm Hiền thì cô đã bỏ bản đi. Đi đâu không ai biết. Hải không biết tiếng Ka-ho, dân bản nói tiếng kinh không sõi nên càng khó hỏi thăm. Vả lại, đang là mùa mưa, việc đi lại trong rừng rất khó khăn, nguy hiểm, nên anh đành quay về, tự hứa với mình là đến mùa khô sẽ đi tìm em gái...

Tôi nói với Hải về đặc thù công việc của mình, xin địa chỉ cũ của Hiền, hứa với anh sẽ đi tìm Hiền, rồi chia tay.

***

Công việc của tôi rất bận rộn, cực nhọc và gian nan. Mùa khô chỉ có sáu tháng nên chúng tôi phải gấp rút hoàn thành kế hoạch thực địa, bởi khi mùa mưa đến, những cơn mưa rừng hung hãn sẽ ngăn bước chúng tôi.

Bất cứ lúc nào có cơ hội tôi lại tìm kiếm tung tích Hiền. Đầu tiên, tôi đến Phòng Giáo dục huyện Bảo Lộc để hỏi han. Người ta bảo, phòng không quản lí giáo viên ngoài biên chế! Tôi hiểu mình đã bắt đầu bằng một sai lầm ngớ ngẩn. Và tôi biết, mình phải làm gì.

Một lần, tôi tìm đến bản Đak-Riên, là nơi mà Hiền đã lần đầu tiên đến để chữa bệnh và sinh sống. Dân bản cho tôi biết, cô giáo bỏ đi vì sợ người Kinh. Có nhiều người Kinh là cô giáo bị đau trở lại. Tôi hiểu ý của bà con. Bản Đak-Riên không còn heo hút, yên bình như xưa nữa. Người Kinh dưới xuôi lần theo dấu vết xe "Be" khai thác gỗ lên tận đây buôn bán, làm ăn với dân bản ngày một đông. Kinh nghiệm cho tôi thấy, cứ ở đâu có vết xe "Be" chở gỗ thì ở đó có người Kinh! Thảo nào, rất nhiều nơi đi qua tôi nhìn thấy dân bản biết nhậu rượu đế, ăn mì tôm ... cười nói oang oang. Tôi đoán Hiền bỏ đi là vì thế. Cô không chịu nổi tiếng ồn!

Theo lời chỉ dẫn của dân bản, tôi cố lần theo dấu vết Hiền. Đã có khi tôi gần như đã tìm được cô. Nhưng cả hai lần, khi tôi đến thì Hiền đã dời đi. "Lọt bốt-tam-hiu", "lọt", "lọt!..." - Đi rồi! Dân bản bảo tôi. Bản của dân tộc Ka-ho tọa ở những nơi rất xa xôi, heo hút. Có khi cả bản chỉ có một, hai nóc nhà. Có khi phải đi suốt mấy ngày đường ròng rã mới gặp một bản. Một lần, tổ thực địa do tôi phụ trách phải đi một chuyến lộ trình xa. Suốt năm ngày lặn lội trong rừng chúng tôi không gặp một bóng người. Đến ngày thứ sáu chúng tôi mới đến được một bản Ka-ho hẻo lánh. Đến được một bản làng nào đó trong lộ trình là niềm vui, niềm hạnh phúc lớn của dân địa chất chúng tôi. Ở đó chúng tôi sẽ được tiếp đón nồng hậu, tử tế. Không phải là sẽ có mâm cao cỗ đầy, vì dân bản vốn rất nghèo, quanh năm chỉ có củ mì, trái bắp. Nhưng chúng tôi sẽ được trò chuyện với người này người kia, sẽ được ngủ trên nhà sàn ấm cúng, chứ không phải ngủ võng, ngủ trên nền đất ẩm ướt trong rừng sâu.

Bản nhỏ, chỉ có ba nóc nhà, nhưng lại có giáo viên người Kinh dạy học. Chúng tôi đến, thầy giáo còn vui hơn cả chúng tôi. Đón chúng tôi, thầy bảo: "Trời ơi! Suốt hai năm nay em chưa thấy mặt người Kinh! Các anh đến, em mừng hết lớn..." Thầy giáo mang ba lô của chúng tôi vào nhà, căn nhà trệt duy nhất trong bản, vừa là nơi dạy học, vừa làm chỗ ở cho thầy. Thầy đon đả giới thiệu: Tên là Huy. Quê Nghệ An. Học Cao đẳng sư phạm Lâm Đồng. Ra trường về đây dạy học được hơn hai năm. Qui định hai năm các giáo viên phải về Phòng họp một lần. Đi họp mất bảy ngày đường, nên chưa đi lần nào. Bao giờ hết "hạn miền núi" về luôn thể. Thầy Huy bảo chúng tôi: "Các anh ở lại đây, tắm rửa, nghỉ ngơi rồi em thịt gà nhậu chơi". Tôi hỏi: "Thầy nuôi được cả gà?" - "Không. Trong bản này, con gà nhà ai mấy tuổi em cũng biết hết!" Chúng tôi cười ngất!

Tôi hỏi Huy về Hiền nhưng thầy không biết. Thầy bảo tôi: "Lâm Đồng đất rộng, nhiều bản xa xôi, hẻo lánh, khó liên lạc, chưa chắc Phòng Giáo dục đã nắm được con số giáo viên nữa là...Có điều, nếu cô Hiền dạy học thì dân bản sẽ rất quí mến, thương yêu. Họ biết, cô giáo đem ánh sáng, đem cái chữ đến cho con em họ. Bởi vậy, dẫu cô Hiền có đi xa đến đâu cũng không bị làm hại, làm nhục. Bọn phỉ Phun- rô ([1]) có thể giết bất cứ người Kinh nào trừ thầy, cô giáo"

Lời thầy Huy đem đến cho tôi phần nào cảm giác yên tâm. Công việc của tôi quá bận, bởi thế việc tìm Hiền liên tục bị gián đoạn. Ba năm sau, kết thúc đề án điều tra Địa chất khu vực Đông Nam Bộ, để các đồng nghiệp về thành phố trước, tôi ở lại Lâm Đồng, dành hẳn một quãng thời gian, quyết tâm tìm kiếm Hiền. Từ một đầu mối đáng tin cậy, là bản Ka- tiêng, nơi tôi biết chắc là Hiền đã từng sống và dạy học một thời gian, tôi bắt đầu lần theo dấu vết cô, theo chỉ dẫn của dân bản. Nhờ biết tiếng Ka-ho bập bẹ nên việc hỏi thăm, giao tiếp của tôi cũng có phần thuận lợi. Đường đi ngày một xa, bản làng ngày một heo hút. Những cơn mưa rừng quái ác bắt đầu trút xuống, ngăn cản bước chân tôi. Có khi, hàng mấy ngày liền tôi phải nằm bẹp ở một bản nào đó, không thể đi được, vì lũ rất to.

Gần hai tháng trời trôi qua, rồi một ngày nọ tôi đã đuổi kịp Hiền, tìm thấy cô... nhưng chỉ là một nấm mộ!

Hiền chết khoảng một năm trước khi tôi đến. Dân bản Đak - Kliêng bảo tôi: "Cô giáo đến dạy học được nửa năm thì ngã bệnh. Nặng lắm. Phải đưa cô ra suối để con ma nó chữa bệnh cho cô. Nhưng không được..." Mộ Hiền được táng lưng chừng đồi, xung quanh có đặt đầy đủ lễ vật cúng bái như một người bản xứ: nồi niêu, dao rựa, nhà sàn... những vật dụng hàng ngày. Đặc biệt, phía trước mộ có trồng một cây nêu bằng tre, trên khắc hoa văn và hình thù kỳ dị để đuổi ma tà.

... Tôi đứng trước mộ Hiền rất lâu. Đầu óc tôi hoàn toàn trống rỗng, tâm trạng rối bời. Chiều tà, rừng đại ngàn u tịch, thẳm sâu. Chỉ có mùi gỗ mốc, lá mục, cỏ dại đưa hương thoang thoảng, ngai ngái. Xa xa, có tiếng suối chảy róc rách nhẹ nhàng. Tiếng một con chim gõ kiến gõ "tróc... tróc" đơn điệu, rồi ngừng hẳn, để sau đó rừng càng đắm chìm sâu trong tĩnh lặng muôn đời. Trong đầu tôi, những ký ức, những kỷ niệm về Hiền, về thằng Thành và những đồng đội đã hy sinh của tôi hiện về mờ tỏ, giống như những thước phim đậm nhạt kéo qua. Nếu còn sống, tất cả họ đều xấp xỉ tuổi tuổi tôi, tuổi thanh xuân rực rỡ.

***

Ba năm sau, tôi trở lại Đak - Kliêng để cải táng cho Hiền. Lúc đào mộ lên, trong thâm tâm tôi vẫn thầm mong đó không phải là Hiền. Rằng Hiền vẫn lang thang đâu đó trong những bản làng của người Ka-ho xa xôi, heo hút. Nhưng, bộ xương dài một mét bảy lăm cùng với chiếc nhẫn vẫn đeo ở ngón tay áp út bàn tay trái, chiếc nhẫn bằng đuya-ra, vẫn sáng bóng, đã nói lên tất cả.

Tôi nhặt nhạnh, xếp những mẩu xương mủn nát, cái đen, cái trắng vào một mảnh ni-lon, cố chùi sạch lớp đất ba-zan đen xỉn bám dày. Vừa làm, nước mắt tôi cứ thế ứ lên, rồi chảy tràn, chẳng thể nào ngăn được. Mới ngày nào đó mà Hiền của tôi bây giờ như thế này đây! Vậy là sẽ chẳng bao giờ Hiền còn nhận ra tôi là ai nữa. Chẳng bao giờ tôi còn cơ hội để nói cho em biết mình là ai. Hiền của tôi ơi... Em có biết không? Sẽ chẳng bao giờ còn có cơ hội kể cho Hiền nghe, đưa Hiền về lại tuổi thơ bình yên thơ mộng, về với trò chơi "mẹ con" của chúng mình nữa. Để tôi có thể thú tội với em rằng, anh đã trộm ngắm báu vật của em, để rồi hình ảnh một miền đồi lùm lùm, hơi nhô cao, bát ngát... có vẻ đẹp mê hồn, có sức cuốn hút kỳ lạ ấy, cứ theo anh mải miết tháng năm... Sẽ chẳng bao giờ tôi còn cơ hội để nói với em rằng, khi Thành mất, tất nhiên anh đã vô cùng đau xót, tiếc thương, nhưng không thể dối lòng rằng anh đã ngấm ngầm nuôi hy vọng mội ngày kia Hiền sẽ lành bệnh, sẽ tỉnh áo lại và sẽ chấp nhận tình yêu nồng cháy của anh. Chúng ta sẽ yêu thương nhau, sẽ sống bên nhau trong hạnh phúc, bình yên như những năm nào thơ bé... Hiền của tôi ơi... Mối tình đầu của tôi ơi. Sẽ chẳng bao giờ...

Tôi gói hài cốt Hiền, có lẫn những giọt nước mắt của mình, cho vào ba lô, rồi vội vàng rời bản Đak - Kliêng. Từ đó, tôi đón xe đò, đi thẳng một mạch về Hà Tĩnh. Tôi đã quyết định sẽ chôn Hiền cùng với Thành và đồng đội. Tôi sẽ đặt Hiền bên cạnh thằng Thành.

Mọi việc đều trôi chảy, êm đẹp. Dù rất vất vả, gian nan nhưng tôi đã hoàn thành công việc mà tôi tự cho là đúng, phải làm. Trên mộ giờ đây không phải là tám mà là chín tảng đá trắng lớn. Tôi vừa đặt thêm một tảng đá nữa cho Hiền. Chỉ duy nhất một chuyện nhỏ làm tôi áy náy mãi, là khi chôn Hiền, tôi đã không chôn theo chiếc nhẫn, mà giữ lại cho mình, làm kỉ niệm. Không hiểu sao lúc đó tôi lại quyết định thế. Cho đến tận bây giờ, khi đã già, tôi vẫn không thể trả lời được, rằng mình đã đúng, hay sai? Thỉnh thoảng tôi vẫn lấy chiếc nhẫn ra nhìn ngắm. Tôi thường xuyên lau chùi một cách tỉ mẩn nên nó sáng bóng. Chiếc nhẫn có đôi chim bồ câu tung cánh bay về cùng một hướng, có hai chữ "T.H" lồng vào nhau hết sức tinh tế, điệu đà!

...

«Trang trước
Trang: 1 2
Danh Mục
» Truyện Teen
» Truyện Tình Yêu
» Truyện Kiếm Hiệp
» Truyện Cười
» Truyện Ma
Bản quyền thuộc về Wap Đọc Truyện
Powered by Xtgem.Com
Note: While you use some service at wapsite you will not return Expense to maintain service of them me. Thank!
Wap đọc truyện
1
pacman, rainbows, and roller s