06:23 | 31/01/25 |
Đang xem: 1 | Lượt xem: 27127 |
Đoàn Dự lại đứng bên cửa sổ nhìn ra, thấy bên ngoài mịt mờ xa thẳm không rõ đâu là
cùng thì biết rằng mình đang ở đáy sông chứ không phải đáy hồ. Chàng lại nghĩ đến
người chủ tòa thạch thất này đã tốn biết bao nhiêu tâm cơ để kiến tạo nên nó, cùng nghĩ
cách lấy ánh sáng ở ngoài nước sông rọi vào trong nhà. Ba phiến thủy tinh kia là vật báu
hiếm có, khó lòng kiếm được. Chàng lại quay vào xem trong nhà thấy có một cái bàn đá,
trước bàn để cái ghế đá, trên bàn có đặt một tấm gương đồng, bên gương còn để mấy thứ
nào lược đầu, nào vòng xuyến, rõ ràng là một nhà khuê các. Tấm gương đồng đã ăn gỉ
xanh lè mà mặt bàn cát bụi dầy đến đốt ngón tay đủ tỏ rằng trong nhà đã bao lâu nay
không có người đặt chân tới.
Trước cảnh tượng đó Đoàn Dự không khỏi ngơ ngẩn nghĩ thầm: "Mấy năm về trước, tại
đây nhất định đã có một vị tiểu thư ở ẩn. Không hiểu nàng đau buồn nỗi gì mà phải xa cõi
nhân gian, lánh mình vào nơi tĩnh mịch này?". Chàng thầm suy nghĩ một lúc rồi lại xem
khắp mọi chỗ trong nhà. Trên vách đá gắn la liệt những gương đồng, chàng đếm được
hơn ba chục chiếc thì lấy làm lạ, đoán ra rằng: "Vị tiểu thư ở đây trước là bậc tuyệt thế
giai nhân, ngày ngày ngắm bóng thương thân trách phận". Nghĩ vậy chàng cũng vì ai
thổn thức can trường.
Đoàn Dự quanh quẩn trong nhà thạch thất, lúc lẩm bẩm một mình, lúc thở dài sườn sượt
thương cho thân phận con người mình chưa từng thấy mặt.
Bỗng chàng sực nhớ lại chuyện mình, bất giác than rằng: "trời ơi! Từ nãy tới giờ mình
chỉ vơ vẩn nghĩ chuyện đâu đâu, quên cả lo tính việc mình. Trong buồng này không có
ngõ ngách nào, làm sao tìm được lối ra?".
Chàng nhìn khắp một lần nữa, tuyệt không thấy một cửa ngõ nào cả. Chán nản chàng
ngồi phịch xuống ghế đá, than thở: "Đoàn Dự này là một gã xấu trai, nếu chết ở đây hoá
ra mạo phạm giai nhân! Sao chẳng chết ngay ở lối đi lúc nãy có hơn không? Trước khi
hồn về chín suối ta thử ngó qua lại bộ mặt xem sao?".
Chàng bèn lấy vạt áo lau hết gỉ đồng trên gương. Gương đã hiện ra chút ánh sáng, nhưng
chàng ngồi trên ghế, mà gương đặt xa quá, soi không rõ mặt. Chàng liền đưa tay ra kéo
tấm gương lại gần. Không ngờ tấm gương nh gắn chặt vào mặt bàn, chàng phải ra sức lay
mạnh một cái, bỗng tự nhiên thấy ghế đá chuyển động. Đoàn Dự cả mừng đứng phắt dậy,
gia sức lay thật mạnh tấm gương đồng, chợt nghe tiếng lách cách, ghế đá dời đi chỗ khác,
lộ ra một cái động. Chàng cúi nhìn thì thấy có bậc đá thông xuống.
Đoàn Dự mừng rỡ khôn xiết kêu lên: "Tạ ơn Trời, Phật, quả có đường ra rồi". Đoạn
chàng theo bậc đá đi xuống. Không ngờ xuống được vài chục bậc, các bậc đá ngoắt lại, đi
ngược lên, càng đi càng lên cao. Lên đến một gian phòng Đoàn Dự thấy phía trước có tia
sáng lóe ra, chàng bỗng giật nẩy mình kêu to lên một tiếng, vì chàng trông thấy một trang
mỹ nữ tay cầm thanh trường kiếm, mũi trỏ thẳng vào bụng chàng. Nhác trông thật là một
vị thanh nhã khác thường, diễm lệ vô song. Chàng chưa từng thấy người nào đẹp đến thế.
Đứng trước một trang sắc nước hương trời, chàng như người mất hồn, há miệng muốn
nói mà líu lỡi không thốt ra được câu nào. Hồi lâu thấy mỹ nhân vẫn đứng yên không
nhúc nhích. Đoàn Dự định thần nhìn kỹ thì ra mỹ nữ này tuy có vẻ đẹp mê hồn nhưng
không phải là người thật, mà là một pho tượng ngọc thạch, chạm chổ rất tinh vi. Pho
tượng lớn bằng người thật, mình mặc đồ tơ lụa mềm mại, tà áo rung rinh. Kỳ nhất là đôi
mắt có tia sáng long lanh như sóng gợn mùa thu, linh động dị thường, khiến cho Đoàn
Dự phải ngây ngời ra mà nhìn. Hồi lâu mới biết là đôi mắt pho tượng chạm bằng thứ đá
đen có vân, càng nhìn càng thấy sâu thăm thẳm. Sở dĩ pho tượng này giống ngưuời thật
như in là ở đôi nhỡn tuyến mà ra. Mặt pho tợng mỹ nhân bằng thứ ngọc trắng có vân
hồng ẩn hiện, trông chẳng khác gì mầu da người thật. Khi Đoàn Dự nghiêng mình ngắm,
hình như luồng nhỡn quang pho tượng cũng đổi hướng chăm chú nhìn chàng, chẳng khác
chi một vị thần nữ. Đoàn Dự giật mình ngoảnh đầu sang phía hữu thì tia mắt pho tượng
cũng quay sang phía chàng. Tóm lại bất luận chàng đứng đâu ngây ngất nhìn pho tượng,
thủy chung vẫn bị đôi mắt tượng thần thu hút. Thần sắc pho tượng hiện ra ở đôi mắt
nhưng khó mà mô tả cho đúng. Đôi mắt có một trạng thái khác thường: mừng không ra
mừng, lo không ra lo; dường như thoáng qua một vẻ buồn, lại tựa hồ có điều chi hờn mát;
còn có thể nói là một đôi mắt linh tư, hay đôi mắt chứa một mối sầu lai láng cũng không
sai.
Đoàn Dự chuyển hướng ngắm đi ngắm lại pho tượng rồi xá dài cung kính tha rằng:
"Tha thần tiên nương tử! Hôm nay kẻ tiểu sinh là Đoàn Dự này được chiêm ngưỡng
phương dung dù có phải là chết cũng không còn điều chi oán thán nữa. Nương tử xa lánh
trần tục, một mình ẩn tại nơi đây, chẳng cũng hiu quạnh lắm ru?".
Tia sáng đôi mắt pho tượng thần dường nh biến ảo khôn lường, nghe lời chàng nói tựa hồ
ra chiều xúc động. Đoàn Dự tâm thần ngây ngất, đôi mắt như mờ. Chàng bần thần nhìn
pho tượng nói tiếp:
- Tiên sinh không biết cách xưng hô với Nương Tử thế nào cho phải phép. Rồi chàng
nghĩ bụng: "Ta thử nhìn kỹ lại, hoặc giả thấy chỗ nào có thể phương danh Nương Tử
chăng? Chàng nhìn đi nhìn lại xung quanh rồi chợt nhìn lên đầu pho tượng thấy mớ tóc
đúng là tóc người. Một làn tóc mây óng mượt quấn lại thành búi. Bên mơ mái tóc có cài
một chiếc vòng ngọc, mặt trên giát hai hạt minh châu lớn bằng đầu ngón tay út, chiếu ra
một thứ ánh sáng huyền ảo. Trên tường cũng gắn vô số hạt minh châu, kim cương đua
nhau chiếu sáng hào quang. Tường mé tây có tám chữ lớn: "Vô Lượng bí ảo, Giải y nải
kiến" gắn bằng những hạt kim cương nhỏ sáng rực. Đoàn Dự cả kinh nghĩ thầm: "Ai mà
dám cởi áo Tiên Nương bao giờ?". Dù đây chỉ là một pho ngọc tượng không phải người
thật nhưng từ lúc chàng ngó thấy, tâm trí đã từng phen đảo lộn, không dám mảy may hỗn
xược. Chàng tự nhủ: "Bổn tâm ta có cần đến đây để tìm ra điều bí ẩn mầu nhiệm gì đâu?
Giả thử ta có nhất tâm như vậy chăng nữa cũng không đời nào dám xúc phạm đến tiên
nương. May mà chưa ai vào đây trước ta, không thì đã có kẻ phàm phu, tục tử mạo phạm
đến một trang tuyệt thế gian nhân rồi còn gì? Âu là ta đem san phẳng tám chữ này đi đề
phòng kẻ đến sau khỏi đụng chạm tới con người ngọc". Chàng ngó xuống chân tường
thấy vô số gương đồng bỏ đó, có đến mấy trăm tấm liền cầm một tấm nạy hết những hạt
kim cương ghép thành tám chữ kia cho rơi xuống hết. Chàng lại đập hết cả những lỗ nhỏ
gắn kim cương vào, đến không còn một chút dấu vết gì nữa mới thôi.
Làm xong việc đó, Đoàn Dự tự coi mình đã có chút công lao nhỏ mọn đối với pho tượng
người ngọc, lòng chàng âm thầm khoan khoái. Chàng trở lại trước mặt pho tượng, như
ngây như dại, trong lòng dường nh có âm hồn ám ảnh, mũi tựa hồ ngửi thấy mùi xạ
hương phảng phất. Chàng đi từ chỗ yêu đến chỗ kính cẩn, rồi từ chỗ kính cẩn đến chỗ mê
mẩn tâm thần, chàng cất tiếng gọi:
- Thần tiên nương tử ơi! Nếu nương tử có phép mầu chỉ nói với tôi một lời, chỉ một lời
thôi, thì dù tôi có phải vì nương tử mà tan xương nát thịt cũng hoan hỉ chẳng khác gì
bước sang thế giới cực lạc. Đoạn tự nhiên chàng quỳ gối xuống lạy. Quỳ rồi chàng mới
biết rằng ở dưới đất, trước pho tượng có trải sẵn hai cái chiếu, dường như để cho người
vào tham bái. Chân chàng quỳ lên chiếc chiếu lớn, dưới chân pho tượng cũng có chiếc
chiếu nhỏ hơn, phải chăng để người cúi đầu xuống lạy? Đoàn Dự vừa phục xuống, bỗng
nhìn mé trong gót hài tựa như có thêu chữ. Chàng định thần nhìn kỹ quả thấy hài chân
trái có tám chữ: "Khẩu thử thiên biến, Cung ngã khu sách". Hài chân phải có tám chữ:
"Tất tao kỳ họa, Thân bại danh liệt". Pho thần tượng đi đôi hài màu nước biển, mười sáu
chữ trên đây nhỏ như đầu ruồi lại thêu bằng thứ chỉ màu xanh, thâm hơn mầu nước biển
một chút, nếu không cúi đầu sát xuống thì không tài nào nhìn rõ được. Hoặc giả có người
khác nhìn thấy thì câu
"Khấu thử thiên biến, Cung ngã khu sách" tất chạm lòng tự ái khiến họ nổi hung, có khi
đá phốc pho tượng đi, còn câu "Tất tao kỳ họa, thân bại danh liệt" thì bất cứ ai cũng
chẳng muốn nhìn. Nếu người ngó mưới sáu chữ này là bậc lão thành, việc đời lịch duyệt
đã nhiều, coi thường những câu bất lợi đó, sẽ mỉm cười bỏ đi. Nhưng Đoàn Dự đã bị
dung nhan pho tượng mê hoặc, chàng lấy làm thú vị được khấu đầu ngàn lạy vì bản tính
chàng ưa thờ phụng sắc đẹp, đến việc cầm roi ruổi ngựa cho giai nhân thì đối với chàng
là một điều rất hân hạnh. Cầu khẩn vị tất đã được? Sau cùng là việc vì mỹ nhân mà bị đại
họa đến phải thân danh tan nát lại là điều sở nguyện của chàng, dù phải muôn thác cũng
không hối hận. Tâm hồn chàng say mê điên đảo, đọc xong mấy câu chàng khấu đầu rất
cung kính vừa lạy vừa đếm.
Chàng lạy được năm, sáu trăm lạy, bắt đầu thấy lưng mỏi, xương đau, sái đầu sái cổ
nhưng chàng vẫn cố gắng đến cùng, lạy cho đủ số mới thôi. Lạy được hơn tám trăm lạy
thì cái chiếu trên bắt đầu thụt xuống, rồi từ đó mỗi lần dập đầu là một lần chiếu thụt dần.
Đoàn Dự lạy được mấy chục lạy nữa, chiếu thụt xuống hõm, chợt thấy lộ ra ba đầu mũi
tên nhỏ, chênh chếch nổi lên, nhằm đúng trán chàng. Đầu mũi tên lấp lóe xanh biếc,
chuôi tên buộc vào cơ quan có lò xo. Đoàn Dự thoáng qua đã hiểu ngay, nghĩ thầm:
"Ghê quá! Những mũi tên này đều tẩm thuốc độc, cũng may là mình kính cẩn khấu đầu
làm lễ, cái chiếu thụt xuống từ từ, tên độc không phóng ra. Ví phỏng mình bước dẫm lên
chiếu, chân thụt xuống đụng mạnh vào cơ quan, tất bị tên độc bắn trúng bụng rồi. Thôi ta
hãy cứ lạy đủ ngàn lạy rồi có xảy ra biến cố gì hãy hay". Chàng vừa nghĩ vừa lạy đều
mấy chục lạy nữa, chiếu thụt xuống sâu hơn, lộ ra một miếng đồng có khắc chữ, nhưng
chàng không xem vội, chăm chú lạy cho đủ ngàn rồi mới đưa tay vào nhấc tấm đồng ra
một cách nhẹ nhàng. Tấm đồng này để rời, không dính vào cơ quan nào cả.
Chàng cầm lên xem, tấm đồng đã nổi gỉ xanh lốm đốm, trên mặt khắc bằng mũi kim nhỏ
mấy hàng chữ sau đây: "Ngươi đã lạy đủ ngàn lạy, vậy ta nhận ngươi làm đệ tử. Từ đây
sắp tới còn gặp nhiều tai nạn thê thảm nói không xiết được, ngươi đừng hối hận. Võ công
hơn đời của phái ta ở khắp nơi trong toà thạch thất, mong rằng ngươi ráng tĩnh tâm
nghiên cứu cho ra".
Đoàn Dự xem xong rất là thất vọng. Bản tâm chàng không muốn học võ nê phải lìa cửa
lìa nhà ra đi, khi nào còn chịu trở lại đây nghiên cứu cái võ công hơn đời chi chi đó nữa?
Chàng cầm tấm đồng đặt lại cẩn thận nguyên vào chỗ cũ, rồi đứng dậy, hai chân mỏi quá
cơ hồ suýt ngã. Ba ngày không được ăn chàng cảm thấy nhọc mệt vô cùng, nghĩ thầm:
"Ta phải gấp rút tìm đường trở ra, không thì bỏ mạng. Trong lòng vẫn còn quyến luyến
pho tợng mỹ nhân, chân bước đi mặt còn ngoảnh lại ...